Năm 2006, Chương trình cải cách giáo dục đại học HERA đã đặt ra mục tiêu có ít nhất một trường đại học Việt Nam lọt bảng xếp hạng 200 trường đại học tốt nhất thế giới vào năm 2020. Mục tiêu này đã không đạt được, và có vẻ như sẽ chưa thể đạt được trong tương lai gần xem xét những khó khăn mà giáo dục đại học (GDĐH) Việt Nam đang gặp phải ở giai đoạn hiện tại, trong đó, thiếu thốn nguồn lực tài chính là một trong những thách thức lớn nhất.
Đo đạc hệ số hiệu quả kinh tế (economic efficiency) của các cơ sở GDĐH là một phương thức góp phần giải quyết những khó khăn này. Thông qua xem xét dữ liệu này, chính quyền có thể nhận diện các trường còn vận hành kém hiệu quả, từ đó đưa ra các chiến lược phân bổ ngân sách cũng như thúc đẩy các thay đổi một cách hợp lý hơn.

Nghiên cứu của nhóm tác giả bao gồm Trần Thiện Vũ (Trường Đại học Công nghệ Thông tin và Truyền thông Việt Hàn; Trường Đại học Đà Nẵng), Phạm Phương Thảo (Trường Đại học Ngoại thương), Nguyễn Mai Hương (Trường Đại học Kinh tế, ĐHQGHN), Đỗ Thành Long (Bộ Khoa học và Công nghệ) và Phạm Hùng Hiệp (Đại học Công giáo Murica, Tây Ban Nha; Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Giáo dục EdLab Asia) là một trong số ít những nỗ lực phân tích hiệu quả kinh tế của các trường đại học Việt Nam. Trong công bố đăng trên tạp chí Journal of Applied Research in Higher Education (Q3 Scopus, CiteScore 2020 = 1.6), nhóm tác giả đã phân tích báo cáo tài chính và học thuật hàng năm của 172 cơ sở giáo dục đại học, xem xét trong giai đoạn từ năm 2012 – 2016. Khoảng thời gian trước năm 2012 chứng kiến một sự gia tăng mạnh mẽ số lượng các trường đại học Việt Nam, cả những cơ sở mới thành lập lẫn những trường được nâng cấp từ hệ cao đẳng. Phương pháp nghiên cứu được sử dụng là bao dữ liệu (data envelopment analysis), một phương pháp phi tham số thường được sử dụng để ước tính số đơn vị ra quyết định trong một lĩnh vực thông qua sử xem xét nhiều đầu vào và kết quả đầu ra.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, tổng thế, hiệu quả kinh tế của hệ thống GDĐH Việt Nam có xu hướng giảm trong khoảng từ năm 2012 – 2016. Bên cạnh đó, nhóm tác giả cũng thực hiện so sánh hiệu quả kinh tế giữa các loại hình trường, loại hình tự chủ và có hay không yếu tố quốc tế hóa. Cụ thể, dữ liệu cho thấy khối trường tư vận hành hiệu quả hơn so với khối trường công. Điều này gợi ý rằng việc tư nhân hóa một số cơ sở còn vận hành thiếu hiệu quả có thể giảm bớt áp lực tài chính và để dành ngân sách nhà nước cho các cơ sở công chất lượng hơn. Thứ hai, các trường đơn ngành có hiệu quả kinh tế kém hơn các trường đa ngành. Dựa trên kết quả này, nhóm tác giả đề xuất hợp nhất một số trường đơn ngành vận hành kém để thành lập các trường đại học đa ngành hoặc liên ngành.
Thứ ba, xem xét khía cạnh mức độ tự chủ, các trường đại học tự chủ có hiệu quả kinh tế cao hơn các trường đại học vẫn phải phụ thuộc và phan bổ tài chính công. Kết quả này gợi ý rằng trao quyền tự chủ cho các trường đại học là một hướng đi đúng đắn. Tuy vậy, khác với nhiều quốc gia, Việt Nam yêu cầu các trường đại học tự chủ hoàn toàn không được nhận bất kỳ trợ cấp tài chính từ chính phủ, điều này về lâu dài sẽ gây ra những hậu quả tiêu cực. Do đó, bên cạnh ủng hộ tự chủ tài chính, chúng ta vẫn cần lưu ý điều chỉnh linh hoạt hơn, chẳng hạn, cho phép tự chủ tài chính một phần và có các khoản trợ cấp dựa trên đánh giá thành tích (performance-based funding).. Cuối cùng, các cơ sở có mức độ quốc tế hóa cao hơn vận hành tốt hơn so với các cơ sở không có các chương trình quốc tế hóa. Để nâng cao hiệu quả kinh tế, các trường đại học Việt Nam cần đẩy mạnh quốc tế hóa thông qua các chiến lược như phát triển các chương trình hay khóa học dạy bằng tiếng Anh (hoặc ngoại ngữ khác).
Chi tiết nghiên cứu: Tran, T. V., Pham, T. P., Nguyen, M. H., Do, L. T., & Pham, H. H. (2022). Economic efficiency of higher education institutions in Vietnam between 2012 and 2016: a DEA analysis. Journal of Applied Research in Higher Education.