SỰ THỐNG TRỊ TRÍCH DẪN CỦA CÁC NHÀ NGHIÊN CỨU “TINH HOA”

Sự bất bình đẳng về trích dẫn này đã trở nên cực đoan hơn theo thời gian và tỷ lệ trích dẫn của các nhà khoa học tại Hoa Kỳ đang giảm xuống.

Các trích dẫn được coi là thước đo chính về tầm quan trọng của một bài báo. Các nhà quản trị trường đại học và cấp kinh phí thường tính đến chúng khi quyết định xem có nên bổ nhiệm một nhà nghiên cứu vào biên chế hoặc cấp tài trợ hay không. Trong phân tích của nhóm nghiên cứu được công bố trên tạp chí Proceedings of the National Academy of Sciences, nhà xã hội học Mathias Nielsen (Đại học Copenhagen) và nhà trắc lượng học Jens Peter Andersen (Đại học Aarhus, Đan Mạch) đã đánh giá các bài báo đã được phản biện trên 118 ngành khoa học trong cơ sở dữ liệu Web of Science quốc tế.

Chênh lệch ngày càng gia tăng 

Các nhà nghiên cứu đã thiết kế một thuật toán để tạo hồ sơ của mọi tác giả có từ 5 công bố trở lên. Sau đó, họ tìm thấy mọi trường hợp trong đó các bài báo của mỗi tác giả được trích dẫn, cộng tất cả chúng lại với nhau để tạo ra điểm trích dẫn.

Điều này cho phép nhóm xác định một “trích dẫn tinh hoa” (elite) – top 1% tác giả được trích dẫn nhiều nhất – và xem mỗi thành viên của nhóm này nhận được bao nhiêu trích dẫn trong một năm nhất định. Từ năm 2000 đến năm 2015, tỷ lệ trích dẫn dành cho nhóm tinh hoa này đã tăng từ 14% lên 21%.

Tranh: Augusto Zambonato/Behance | CC BY-NC-ND 4.0

Mặc dù hầu hết các lĩnh vực đều có sự gia tăng, nhưng sự gia tăng bất bình đẳng lớn nhất xảy ra trong vật lý và thiên văn học. Trong những lĩnh vực này, tỷ lệ trích dẫn dành cho nhóm tinh hoa đã tăng từ 20% vào năm 2011 lên khoảng 22% vào năm 2012 và tiếp tục tăng lên. Nielsen và Andersen không chắc tại sao lại xảy ra sự nhảy vọt này, nhưng họ cho rằng nó có thể là kết quả của việc ngày càng có nhiều sự hợp tác công bố với hàng trăm tác giả.

Các tác giả nhận định rằng các nghiên cứu được mong đợi rộng rãi trong bất kỳ lĩnh vực nào, chẳng hạn như nghiên cứu công bố phát hiện ra hạt Higgs, có thể thu hút nhiều trích dẫn hơn so với những nghiên cứu không tạo ra nhiều tính công chúng. Nielsen cũng cho rằng, có những thực nghiệm cần sử dụng những cơ sở hạ tầng nghiên cứu vật lý và thiên văn học chỉ có sẵn trong một khoảng thời gian hạn chế như máy gia tốc hạt và kính thiên văn, nên một số ít nhà khoa học có quyền truy cập những dụng cụ này sẽ được trích dẫn thường xuyên.

Cassidy Sugimoto, một nhà nghiên cứu tin học tại Đại học Indiana Bloomington, cho rằng số lượng hợp tác ngày càng tăng có thể giải thích cho hiện tượng trên. Sugimoto nói: “Tôi coi đó là sự tái cơ cấu và tổ chức lại khoa học. Nó cho thấy rằng cộng tác nghiên cứu giờ đây là một điều phổ biến.”

Nielsen và Andersen cũng nhận thấy sự giảm tỷ lệ trích dẫn cho các bài báo có tác giả ở Hoa Kỳ và sự gia tăng các trích dẫn cho các bài báo có tác giả ở Tây Âu và Úc. Các nhà nghiên cứu ‘trích dẫn tinh hoa’ tập trung cao nhất ở Hà Lan, Vương quốc Anh, Thụy Sĩ và Bỉ.

Vincent Larivière, một nhà trắc lượng học tại Đại học Montreal ở Canada, không ngạc nhiên trước điều này. Ông chỉ ra rằng tỷ lệ bài báo từ các nhà nghiên cứu Hoa Kỳ cũng đang giảm. Theo Chỉ số Khoa học và Kỹ thuật của Quỹ Khoa học Quốc gia Hoa Kỳ, Hoa Kỳ chiếm 29% tổng số bài báo được xuất bản vào năm 1998 nhưng chỉ 17% vào năm 2018.

Larivière tự hỏi liệu việc loại trừ các nhà khoa học có ít hơn năm xuất bản có thể ảnh hưởng đến kết quả trên hay không. Ví dụ, nghiên cứu sinh tiến sĩ và postdocs chỉ có thể xuất bản một hoặc hai bài báo trước khi rời giới hàn lâm để làm việc trong ngành công nghiệp, chính phủ hoặc khu vực phi lợi nhuận. Nếu số lượng các tác giả như vậy ngày càng tăng, điều này có thể giải thích cho sự gia tăng rõ ràng về cường độ trích dẫn giữa các nhà khoa học có kinh nghiệm.

Andersen nói rằng ông và Nielsen phải giới hạn phân tích của họ cho các tác giả có nhiều ấn phẩm vì lý do chất lượng dữ liệu. Việc yêu cầu mỗi hồ sơ chứa nhiều ấn phẩm trong cùng một lĩnh vực đã giúp thuật toán của họ phân biệt giữa các tác giả có tên giống nhau; bao gồm tất cả những người chỉ có một công bố duy nhất sẽ làm cho việc phân tích trở nên quá khó khăn. Tuy nhiên, cả hai đều đồng ý rằng sẽ rất hữu ích nếu hiểu các xu hướng xung quanh các tác giả ‘nhất thời’. Nielsen nói: “Nếu nhóm đó đang phát triển, điều đó sẽ làm cho tình trạng (trích dẫn) tập trung ở nhóm tác giả có kinh nghiệm trở nên nghiêm trọng hơn”.  

Các tác giả lưu ý rằng tập dữ liệu của họ có thể bao gồm một số tác giả được trích dẫn nhiều có tác động được tạo ra thông qua việc tự trích dẫn cực đoan, “cày” trích dẫn và quyền tác giả ma.

Các bất bình đẳng khác

Sugimoto không quá quan tâm đến sự bất bình đẳng về trích dẫn giữa các tác giả đã thành danh. Cô chỉ ra rằng 70% tác giả trong Web of Science có ít hơn 5 xuất bản, có nghĩa là những tác giả được trích dẫn nhiều nhất trong số 4 triệu tác giả được đưa vào nghiên cứu này tạo thành “một tầng lớp tinh hoa”, cô nói: “Tôi nghĩ rằng những bất bình đẳng này không phải là những bất bình đẳng quan trọng.”

Ludo Waltman, một nhà khoa học định lượng tại Đại học Leiden, Hà Lan, nói rằng nghiên cứu không chỉ ra rằng bất bình đẳng về trích dẫn dẫn đến bất bình đẳng trong tài trợ hoặc thăng tiến nghề nghiệp. “Cuối cùng, đó mới là điều thực sự quan trọng,” anh nói.

Waltman nói rằng một số tổ chức đang dần dần bỏ việc sử dụng các chỉ số trích dẫn và công bố trong các quyết định ảnh hưởng đến lộ trình nghề nghiệp của các nhà nghiên cứu trẻ. Và ông nói thêm rằng một số sự mất cân bằng trích dẫn có thể là do các nhà nghiên cứu tinh hoa cộng tác thường xuyên với các nhóm khác, do đó, tên của họ xuất hiện trên nhiều bài báo.

Nhưng sự hiện diện của một tầng lớp tinh hoa có thể là một vấn đề nếu nó ảnh hưởng đến hướng nghiên cứu trong một lĩnh vực. Andersen nói: “Thật khó để xác định rằng tình trạng này là tốt hay xấu. Nhưng có một rủi ro là nếu mức độ tập trung trở nên quá cao, nhóm tinh hoa này có thể xác định nghiên cứu nào đang được tiến hành và tạo ra một loại độc quyền nào đó” đối với những ý tưởng được coi là thú vị.

Nielsen chỉ ra một báo cáo năm 2019 cho thấy rằng sau khi sự sáng chói khoa học chết đi, các tác giả mới và ý tưởng mới bắt đầu tham gia vào lĩnh vực này dễ dàng hơn.

“…nếu mức độ tập trung trở nên quá cao, nhóm tinh hoa này có thể xác định nghiên cứu nào đang được tiến hành và tạo ra một loại độc quyền nào đó” đối với những ý tưởng được coi là thú vị…

Các tổ chức có thể thực hiện các bước để tách các quyết định về tài trợ và nhiệm kì khỏi các chỉ số xuất bản, nhưng vẫn chưa rõ liệu có thể làm được gì về nhóm trích dẫn tinh hoa, ít nhất là cho đến khi hiểu rõ hơn về những ảnh hưởng của nhóm đó. Nielsen và Andersen hiện đang xem xét liệu các thành viên của nhóm tinh hoa khoa học có ưu tiên trích dẫn lẫn nhau hay không, và liệu các nhà khoa học tạm thời làm sinh viên hay kỹ thuật viên có giúp xây dựng danh tiếng của các tác giả tinh hoa tuyển dụng họ hay không.

Đức Huy dịch

Nguồn

Sara Rearon. (2021). Elite’ researchers dominate citation space. Nature.

Leave A Comment